Tăng huyết áp không được điều trị và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn thương nặng các cơ quan đích và gây các biến chứng hiểm nguy như tai biến mạch não, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, phình tách thành động mạch chủ, suy tim, suy thận... thậm chí dẫn đến tử vong.
Khi nào được gọi là tăng huyết áp?
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO)Hiệp hội tim mạch Hoa Kỳ (ACC/AHA) năm 2017 người bị tăngđưa ra huyết áp đích khi chỉ số đo áp huyết từ thấp hơnrên 1430/980mmHg. Đồng thời, WHO và Hội đồngHiệp hội Tăng Hhuyết áp thế giới (ISH) năm 2020 đã phân độ THA như sau:
- Tăng độ I: thường nhật cao: khi huyết áp từ 130-139 và/hoặc 85-89 mmHg;
- Tăng độ II: khi áp huyết từ 140 - 175/100 - 100-99mmHg
- Tăng độ III: khi huyết áp từ 160/110mmHg trở lên.
Hội tim mạch Châu Âu (ESC/ESH 2018) quy định huyết áp mục tiêu là huyết áp dưới 140/90mmHg, riêng người bị đái tháo đường, áp huyết mục tiêu phải dưới 130/80mmHg.
tuy thế, áp huyết của một người thường ngày cũng có động dao rõ rệt, áp huyết thường cao dần từ lúc tỉnh buổi sáng cho đến 10 giờ sáng và gia tăng nhiều hay ít tùy thuộc vào sự vận động và trạng thái tinh thần. do vậy, lúc ngủ áp huyết sẽ thấp hơn lúc làm việc bình thường khoảng 20mmHg, cao hơn lúc buổi chiều là 10%.
// Đừng bỏ lỡ các nội dung hay trên: https://bosungsatmevabe.comCác biến chứng tăng huyết áp xảy ra với người bệnh
Cao huyết áp được ví như “kẻ giết người thầm lặng” bởi các triệu chứng bệnh lý là không rõ ràng, do đó người bệnh thường chủ quan và không phát hiện kịp thời. Đặc biệt là dễ gây ra các biến chứng tăng áp huyết nguy hiểm như:
Suy tim
Khi tình trạng cao huyết áp xảy ra, suy tim là một trong những biến chứng hiểm nguy hàng đầu mà người bệnh có thể gặp phải. Nguyên nhân là do tim cần co bóp liên tục với công suất cao hơn để có thể bơm máu ra tới mạch ngoại biên. Khi tình trạng này kéo dài, cơ tim có thiên hướng phì đại, khả năng đàn hồi kém hơn so với bình thường, các chức năng bơm hút máu về tim giảm mạnh.
Bên cạnh nguy cơ bị suy tim, người bệnh cũng có thể gặp phải các bệnh lý hay vấn đề về tim mạch khác như nhồi máu
Chính thành thử, theo khuyến cáo của các chuyên gia, người bị cao huyết áp cần đi rà soát mắt định kỳ để nhanh chóng phát hiện các dấu hiệu bất thường và kịp thời phát hiện.
Bóc tách và phình động mạch chủ
Bóc tách hoặc phình động mạch chủ có thể xảy ra với người bị cao áp huyết dưới ảnh hưởng của áp lực lên thành động mạch. Phình động mạch xảy ra khi kích tấc động mạch chủ là >45mm. Trong trường hợp kích tấc tăng lên > 55mm, người bệnh cần được can thiệp phẫu thuật kịp thời hoặc tiến hành đặt stent động mạch.
Để theo dõi thẳng thớm nguy cơ gặp phải biến chứng tăng huyết áp này, người bệnh cần chủ động kiểm tra, tiến hành siêu âm tim hoặc chụp CT cho động mạch chủ.
Suy giảm trí nhớ
Suy giảm trí tưởng có thể xảy ra khi cao áp huyết không được phát hiện và điều trị kịp thời. Biến chứng tăng huyết áp này thường gặp phổ quát ở người già, người cao tuổi. Tình trạng này cũng có nguy cơ gây ra các bệnh lý về về não bộ khác như Alzheimer.
Các biến chứng khác
huyết áp cao cũng gây ra các vấn đề khác như:
-
Rối loạn cương dương ở nam giới.
-
Bệnh lý tiểu đường.
-
Các bệnh lý can hệ đến thận. cơ tim, bệnh mạch vành,...
Các vấn đề liên hệ tới động mạch ngoại biên
áp huyết tăng bộc trực khiến các động mạch ngoại biên như động mạch chi trên - dưới, động mạch cảnh, động mạch thận bị ảnh hưởng. Theo thời gian trở thành cứng, xơ vừa và vôi hóa, thậm chí là tắc nghẽn.
Biến chứng tăng áp huyết này khiến người bệnh liền gặp phải tình trạng đau nhức, tê bì thuộc cấp, chuyển di mất nhiều sức, hoặc không thể chuyển di trong thời gian dài được.
Biến chứng tăng áp huyết tại mắt
Người bị cao huyết áp có nguy cơ gặp các biến chứng tăng áp huyết tại mắt với bệnh lý võng mạc. căn nguyên là do các huyết mạch tại võng mạc bị tổn thương. Các huyết mạch này thường có thiên hướng bị co thắt hoặc phù nề, hình dạng bất thường. Nặng nhất có thể xảy ra tình trạng xuất huyết võng mạc khiến người bệnh nhìn mờ hoặc không thể nhìn thấy nữa.
Làm sao để hạn chế mắc bệnh tăng huyết áp
đích điều trị cao huyết áp là để giữ cho áp huyết của bệnh nhân ổn định ở mức cho phép, thường là dưới 140/90 mmHg đối với mức áp huyết đích chung. Tuy nhiên, đối với bệnh nhân mắc cả hai bệnh tăng huyết áp và tiểu đường hoặc bệnh thận mạn tính, thầy thuốc sẽ yêu cầu một liệu trình điều trị nghiêm nhặt hơn để giữ cho áp huyết ổn định ở mức dưới 130/80 mmHg.
đổi thay lối sống
Đây là biện pháp không dùng thuốc, chiếm một vai trò quan yếu trong liệu trình điều trị chung. Theo lời khuyên của các thầy thuốc, bệnh nhân có thể kiểm soát áp huyết bằng cách:
- Điều chỉnh chế độ ăn uống: lành mạnh hơn và dùng ít muối (dưới 6g/ngày);
- Tập thể dục đều đặn, vừa sức;
- rứa duy trì cân nặng lý tưởng, giảm cân theo hướng dẫn;
- Ngừng hoặc hạn chế tối đa uống rượu, bỏ hút thuốc;
- Tránh nhiễm lạnh đột ngột
- Kiểm soát tốt các bệnh liên quan;
- Sử dụng thuốc điều trị tăng áp huyết đúng theo hướng dẫn của thầy thuốc;
- liền theo dõi sự thay đổi của áp huyết ngay tại nhà với máy đo phù hợp.
Dùng thuốc điều trị tăng huyết áp
phải đổi thay lối sống không đem lại nhiều lợi ích trong việc cải thiện tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ cân nhắc cho bệnh nhân dùng thuốc theo toa. Dùng thuốc thẳng tuột để ổn định áp huyết. Điều trị tăng áp huyết là điều trị cả đời. Không tự tiện ngừng điều trị, cần phải tham vấn bác sĩ chuyên khoa tim mạch.
Điều trị tăng áp huyết trong trường hợp khẩn
Một số trường hợp tăng huyết áp cấp cứu cần phải được chữa trị ngay thức thì tại phòng cấp cứu hoặc phòng coi sóc đặc biệt, vì lúc này nguy cơ bệnh nhân tử vong là khá cao. Bệnh nhân có thể được thở oxy và dùng thuốc hạ huyết áp khẩn để mau chóng cải thiện tình hình.
Có thể bạn sẽ quan tâm :